Ca khúc phổ thơ kháng chiến chống Mỹ: Tiếng hát át tiếng bom

01/05/2021 14:00 GMT+7 | Văn hoá

(lienminhbng.org) - Trong hai cuộc kháng chiến, số lượng thơ được phổ nhạc nhiều nhất thuộc về thơ chống Mỹ. Thơ vừa ra đời đã tạo cảm hứng cho âm nhạc cùng chung nhiệm vụ “Tiếng hát át tiếng bom”. Thơ làm nền cho nhạc, nhạc cất cánh cho thơ. Sự gặp gỡ giữa thơ và nhạc là sự cộng hưởng của tình yêu. Những ca khúc ra đời trở thành tiếng nói đồng điệu của hàng triệu con tim nhiều thế hệ, và cho đến nay đã trở thành “Những bài ca đi cùng năm tháng”.

Khi đại bác gầm, họa mi không tắt tiếng

Khi đại bác gầm, họa mi không tắt tiếng

Một nhà văn phương Tây đã từng nói “Khi đại bác gầm thì họa mi im tiếng”. Có thể câu nói trên đúng ở đâu đó, nhưng lại là ngoại lệ đối với Việt Nam.

1. Nhiều người cho rằng dòng nhạc truyền thống cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ là “nhạc đỏ”. Nhạc đỏ - ca khúc cách mạng không chỉ là những bài hát hào hùng, thúc giục tinh thần chiến đấu, mà còn là những bài hát trữ tình thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi...

Chú thích ảnh
Hội Nhạc sĩ Việt Nam đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ phải sang: (Hàng ngồi): NS Phạm Minh Tuấn, NS Phan Huỳnh Điểu, NS Tôn Thất Lập (Hàng đứng): Tác giả bài viết, NS Đỗ Hồng Quân, NS Phan Hồng Hà

Nhiều bài thơ thời chống Mỹ được phổ nhạc có sức sống lâu bền, vẫn ngân vang cho đến bây giờ, kể cả khi đời sống âm nhạc hiện nay sôi động, phong phú và đa dạng hơn. Điều dễ nhận thấy, các nhạc sĩ khá trung thành với nguyên bản, tên bài thơ đồng thời là tên ca khúc.

Có thể kể đến: Vàm Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ, nhạc Trương Quang Lục); Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu, nhạc Hoàng Hiệp); Đường ra mặt trận (thơ Chính Hữu, nhạc Huy Du); Tháng Ba Tây Nguyên (thơ Thân Như Thơ, nhạc Văn Thắng); Bước chân trên dải Trường Sơn (thơ Nguyễn Đăng Thục - Tào Mạt, nhạc Vũ Trọng Hối); Lá đỏ (thơ Nguyễn Đình Thi, nhạc Hoàng Hiệp ); Bóng cây kơ nia (thơ Ngọc Anh, nhạc Phan Huỳnh Điểu); Hạt gạo làng ta (thơ Trần Đăng Khoa, nhạc Trần Viết Bính); Em bé Bảo Ninh (thơ Nguyễn Văn Dinh, nhạc Trần Hữu Pháp”; Cô gái vót chông (thơ Môlôyclavi, nhạc Hoàng Hiệp); Cùng anh tiến quân trên đường dài (thơ Xuân Sách, nhạc Huy Du); Đất quê ta mênh mông (thơ Dương Hương Ly, nhạc Hoàng Hiệp); Đêm hành quân nhớ Bác (thơ Nguyễn Trung Thu, nhạc Huy Du); Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (thơ Phạm Tiến Duật, nhạc Hoàng Hiệp)…

Chú thích ảnh
Nhạc sĩ – Đại tá Huy Thục

Nhạc sĩ thường bắt được cái hồn của thơ, không lấy nguyên mẫu từng câu từng chữ, mà chọn sử dụng những câu, những đoạn phù hợp với ý tưởng của mình. Ca khúc Bài ca Trường Sơn của Trần Trung dựa trên bài thơ Trường Sơn của Gia Dũng; ca khúc Lời ru trên nương của Trần Hoàn dựa trên bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm; ca khúc Ta tự hào đi lên, ôi Việt Nam dựa trên bài thơ Đầu sóng của Hoàng Trung Thông; bài hát Nổi lửa lên em dựa trên bài thơ Em vẫn hành quân của Giang Lam; Bùi Đình Thảo dựa trên bài thơ Hương rừng của Hoàng Minh Chính sáng tác ca khúc Đi học… Có nhiều trường hợp phổ nhạc theo cách phỏng thơ, lấy cốt từ tứ của thơ, chuyển ca từ phù hợp: Anh vẫn hành quân (phỏng thơ Trần Hữu Thung, nhạc Huy Du); Người lái đò trên sông Pô cô (phỏng thơ Mai Trung, nhạc Cẩm Phong)...

Có trường hợp nhạc sĩ lấy tứ thơ tiêu biểu làm sức sống cho cả ca khúc, như trường hợp Tiếng đàn bầu (Lữ Giang). Nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc chỉ lấy hai câu thơ tiêu biểu Cung thanh là tiếng mẹ/ Cung trầm là giọng cha làm nên giai điệu da diết của Tiếng đàn bầu. Nhiều trường hợp, nhạc sĩ thay đổi trật tự kết cấu thơ, như Dáng đứng Việt Nam (thơ Lê Anh Xuân, nhạc Nguyễn Chí Vũ).

Có trường hợp nhạc sĩ không chỉ chọn một bài, riêng một nhà thơ cho ca khúc của mình. Đường chúng ta đi - Ca khúc đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh được nhạc sĩ Huy Du phổ nhạc vẫn vang lên hào hùng nhân dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước “Việt Nam! trên đường chúng ta đi. Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó. Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời. Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước, mà vui sao ta chẳng nói nên lời...” dựa từ thơ Xuân Sách và Hoàng Trung Thông.

Chú thích ảnh
Nhạc sĩ Huy Du

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu là nhạc sĩ có nhiều thành công trong việc “chắp cánh cho thơ”. Nếu ở Trịnh Công Sơn “lời vượt nhạc”, thì ở Phan Huỳnh Điểu “nhạc vượt thơ” (nhận xét của nhạc sĩ Phong Nhã). Ông đưa tình ca vào cả nhịp hành khúc, điển hình là Hành khúc ngày và đêm (thơ Bùi Công Minh) và Cuộc đời vẫn đẹp sao (thơ Dương Hương Ly) với tâm niệm “Hành khúc mà không lãng mạn thì ngán chết”…

Trước một phong cách thơ Chính Hữu với tứ thơ vững chãi, câu thơ chắc khỏe, sinh động giàu chất tạo hình, các nhạc sĩ thường tôn trọng việc sử dụng câu thơ ngắn gọn, nhiều vần trắc, nhiều động từ mạnh, nhịp điệu nhanh để phổ nhạc. Trên đường ta đi đánh giặc/ Ta về Nam hay ta lên Bắc/ Ở đâu ta cũng gặp/ Những ngọn đèn chong mắt đêm thâu (nhạc Hoàng Hiệp); âm hưởng giục giã, khí thế ra trận Đường ra mặt trận (nhạc Huy Du)…

Ca khúc "Người con gái sông La" với phần trình diễn của Anh Thơ:

Xúc động trước hình ảnh La Thị Tám và những cô gái Ngã ba Đồng Lộc, năm 1970, trong lần hành quân qua Đồng Lộc, nhạc sỹ Doãn Nho đã gặp nhà thơ Phương Thúy. Sau buổi trò chuyện ấy, ngồi lại với cây đàn, chỉ hai giờ sau, bài hát Người con gái sông La ra đời. Âm hưởng bài hát hùng tráng, đầy da diết, ngọt ngào “Em vừa 18 tròn đẹp như xuân sang/ Em người chiến thắng sức mạnh bạo tàn/ Đạp lên cái chết dáng em hiên ngang/ Em là chồi biếc, giữa mùa xuân Việt Nam” đã khắc sâu vào trái tim bao người tri ân với những người con tình nguyện dâng hiến tuổi xuân cho đất nước.

Đặc biệt nhạy cảm về tính nhạc, nhiều câu thơ của Nguyễn Đình Thi tự nó đã là câu hát, là nốt nhạc được “ký hiệu hoá” qua âm thanh ngôn ngữ. Bài Nhớ được nhạc sĩ Hoàng Vân chọn phổ nhạc năm 1963. Bài Lá đỏ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc năm 1974. Nhịp điệu của rừng Trường Sơn ào ào trút lá, đoàn quân ra trận trong sương khói bàng bạc của bụi đất: Gặp em/trên cao lộng gió/ Rừng lạ/ Ao ào lá đỏ/ Em đứng bên đường/ Như quê hương/ Vai áo bạc/quáng súng trường. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp chỉ đổi “rừng lạ” (thanh trắc) sang “rừng Trường Sơn” (thanh bằng) là tạo nên sức vang ngân và ca khúc ấy đã hát vang trong dịp mừng chiến thắng năm 1975.

Chú thích ảnh
Nhạc sĩ Doãn Nho

2. Những ca khúc phổ nhạc thơ kháng chiến thời kỳ chống Mỹ cứu nước mang hình tượng đẹp, vừa hùng tráng, vừa tha thiết, trữ tình. Đó là hình tượng Tổ quốc, nhân dân mang âm hưởng hùng ca, tầm vóc, kích thước sử thi hoành tráng (Đường chúng ta đi, Ta tự hào đi lên, ôi Việt Nam, Dáng đứng Việt Nam, Anh vẫn hành quân, Bước chân trên dải Trường Sơn...); và những ca khúc trữ tình trong sáng, gợi cảm xúc lớn và khao khát tình yêu.

Có điều, phổ nhạc thơ chống Mỹ ít gặp trường hợp ca khúc chỉ thuần túy thể hiện tình yêu riêng tư như nhạc trẻ sau này. Tình yêu - đề tài vốn được coi là “cấm kỵ” ở thời điểm ấy, vẫn được phổ nhạc ngay sau thời điểm thơ ra đời. Đó là trường hợp bài thơ Tình em (ban đầu có tên Gửi em dưới quê làng) của nhà thơ Hồ Ngọc Sơn, được nhạc sĩ Huy Du trên nền cảm xúc mănh liệt ấy để viết Tình em.

Tình em ra đời ngay trong những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Âm thanh hoà quyện với lời thơ khiến Tình em như một bản nhạc do cuộc sống sinh ra, như sự giao hoà giữa con người với thiên nhiên, như tiền tuyến với hậu phương, như Anh và Em. Nhưng cũng khá nhiều bài thơ tình yêu ra đời trong thời điểm kháng chiến chống Mỹ, nhưng phải sau 1975 mới được phổ nhạc: Hương thầm (thơ Phan Thị Thanh Nhàn, nhạc Vũ Hoàng); Thuyền và biển (thơ Xuân Quỳnh, nhạc Phan Huỳnh Điểu ); Làng Quan họ (thơ Phan Hách, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo); Sợi nhớ sợi thương (thơ Thuý Bắc, nhạc Phan Huỳnh Điểu)…

Điều đó có cơ sở từ thực tế của tất cả các loại hình nghệ thuật khác như: văn học, sân khấu, hội họa, âm nhạc... của thời kỳ này. Chất sử thi xuyên thấm như một đặc trưng thể loại, một “siêu thể loại” chi phối vào mọi loại hình văn học nghệ thuật. Vì thế, tình yêu lứa đôi chỉ có chỗ đứng trong tình yêu Tổ quốc, nhân dân. Hay nói cách khác, Tổ quốc chắp cánh tình yêu thêm cao cả, ngời chói lý tưởng.

Theo “quán tính”, khá nhiều ca khúc sau năm 1975 như một khúc vĩ thanh cho những trải nghiệm, ngợi ca bằng âm hưởng sâu lắng, nhưng đã hé mở sự mất mát, hy sinh từ phía con người cá nhân. Đất nước, Nhân dân, trong đó người lính, người mẹ, được khắc họa rất chân thành, xúc động trong nhiều ca khúc, như: Đất nước tôi (Phạm Minh Tuấn), Đất nước (Tạ Hữu Yên), Màu hoa đỏ (thơ Nguyễn Đức Mậu, nhạc Thuận Yến), Huyền thoại Mẹ (Trịnh Công Sơn), Mẹ Việt Nam (An Thuyên), Miền xa thẳm (Phạm Hoa, Đức Trịnh), Vệ đê trong đêm trăng (Thanh Khang, Khánh Hương)…

Chú thích ảnh
Tam ca Trọng Tấn - Đăng Dương - Việt Hoàn

3. Tính nhạc là đặc điểm có tính chất phổ biến trong mọi ngôn ngữ, là một đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ ca. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, đồng thời làm phong phú cho đời sống âm nhạc. Thơ gợi cảm hứng lớn, được chuyển hoá từ đường nét, tiết tấu, giọng điệu để trở thành đường nét, tiết tấu của âm nhạc có hiệu quả nhất, có sức sống lâu bền trong đời sống thơ ca và âm nhạc nước nhà.

Bằng sự sáng tạo nghệ thuật, bằng quá trình hưng phấn và cảm xúc, nhạc sĩ đã hiện thực hoá thơ thành âm nhạc. Những bài thơ được phổ nhạc trở thành những ca khúc bất tử hào hùng của thời chống Mỹ, chiếm vị trí quan trọng, khích lệ, thôi thúc đồng bào, chiến sĩ trên mỗi chặng đường cách mạng và mãi mãi trường tồn cùng thời gian, cùng lịch sử.

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng nhiều hãng băng đĩa vẫn sản xuất nhiều album ca khúc cách mạng, với sự thể hiện của những ca sĩ sinh sau 1975 (Quang Dũng, Đan Trường, Đoan Trang, Hồ Bích Ngọc, Nam Khánh...). Những ca khúc ấy vẫn xuất hiện đều đặn trên các kênh truyền hình, sân khấu ca nhạc, trường học, lòng người và... cả người hát lẫn người nghe vẫn còn tươi nguyên những cảm xúc dạt dào về một thời không thể nào quên.

PGS-TS Lê Thị Bích Hồng

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm